Nếu những năm tháng thiếu niên là giấc mộng
Ta nguyện vạn kiếp đắm chìm
Khung cảnh xung quanh liên tục biến đổi kì ảo. Vẫn là trên đỉnh núi, nhưng khi là mùa hạ xanh mát, lúc lại là mùa thu lá vàng. Mùa nối mùa, năm nối năm, thời gian như một thước phim tua nhanh trước mắt chúng tôi. Chỉ có tiếng cười đùa của đôi thiếu niên kia là không đổi. Mùa hạ họ cùng nhau hái hoa đuổi bướm, mùa thu luyện kiếm, mùa đông múa ca. Dường như cuộc sống của đôi thanh mai trúc mã này chỉ có niềm vui. Nhưng tôi biết, bây giờ càng hạnh phúc, tương lai của họ càng như vực sâu vạn trượng. Bởi chàng trai trẻ kia chính là người đàn ông đang đứng cạnh tôi đây. Không biết tai kiếp gì đã hun đúc chàng trai như gió xuân trở thành người đàn ông sừng sững như ngọn núi này.
Chớp mắt, cảnh núi đã trở về mùa thu. Đôi thiếu niên kia đã trưởng thành. Thường Hy khoảng 14-15 tuổi, hai búi tóc trên đầu vẫn cột lụa trắng. Nàng đang ngồi ôm huyền cầm, dưới những ngón tay trắng thon như búp măng tuôn ra một giai điệu hào khí ngút trời. Hạ Kỳ khoảng 17-18, chàng múa thanh trường kiếm theo tiếng nhạc, từng động tác linh hoạt mà vững chãi.
Nhạc dứt, Thường Hy thong dong đứng dậy, rút khăn tay lau mồ hôi cho Hạ Kỳ. Trên khuôn mặt nàng vẫn là nụ cười trong sáng như cô gái nhỏ hôm nào, lại có thêm vài phần ôn nhu.
Tôi buột miệng khen:
– Cô ấy đẹp dịu dàng thật, đúng là một tiểu thư khuê các.
Kỳ ca quay sang nhìn tôi, nhướng đôi mày kiếm:
– Đẹp thì đúng. Nhưng dịu dàng thì… không hợp với nàng lắm đâu.
Người đàn ông này đang cười nhạo tôi đấy à? Tôi cũng đâu có tự khen mình đẹp dịu dàng đâu. Thôi được rồi, trong mắt anh ta thì tôi và Thường Hy chính là một. Tôi phát hiện hóa ra người đàn ông này cũng có thể trêu đùa người khác. Có lẽ trong cốt tủy anh ta vẫn là thiếu niên Hạ Kỳ như gió xuân kia. Lúc tôi đang định lên tiếng phản bác thì tiếng Hạ Kỳ từ đằng xa vọng lại:
– Thanh trường kiếm này phụ hoàng ban cho ta, quý thì có quý nhưng ta dùng lại không thuận tay lắm. Ta muốn tự đúc thanh kiếm của riêng mình. Hy nhi, muội nói xem, chúng ta có nên đến thành Nam nhờ thợ giỏi đúc kiếm không? Lão thợ rèn họ Phó ở đó cũng già lắm rồi, không đến sớm sợ ông ấy còn không giơ nổi búa lên ấy chứ.
– Năm ngoái đại ca muội cũng nhờ lão Phó đúc cho một thanh trường kiếm. Kiếm ấy cha muội cũng phải khen. Nhưng cha còn nói, muốn người và kiếm tâm linh tương thông, khi đúc phải dùng máu mình tế kiếm.
– Đại ca muội cũng được lão Phó đúc kiếm? Không được, ta cũng phải đúc kiếm. Không thể thua kém Thường Ngôn được. Chúng ta đi mau.
Nói dứt lời, Thường Hy và Hạ Kỳ nhanh chóng dắt tay nhau rời đi. Mãi một lúc lâu sau vẫn không thấy khung cảnh biến đổi, tôi quay sang nhìn Kỳ ca với ánh mắt dò hỏi.
– Chúng ta không đi theo họ sao?
– Cảm ơn nàng!
– Hả? Gì cơ? Sao đột nhiên lại cảm ơn tôi?
– Cảm ơn nàng năm đó đã dùng máu tế kiếm, tặng cho ta thanh trường kiếm Kỳ Hy này. Những năm tháng không có nàng ở bên, nó giúp ta nguôi ngoai phần nào. Mỗi lần cầm kiếm, cảm giác như từng giọt máu của nàng hòa vào huyết mạch của ta. Điều đúng đắn nhất ta làm trong những năm tháng ngây ngô ấy, có lẽ chính là cùng nàng rèn thanh kiếm này.
Kỳ ca siết chặt tay nắm chuôi kiếm vẫn đeo bên hông, đôi mắt còn bi thương hơn cả lời nói. Tôi không biết nên an ủi anh ta thế nào. Tôi không nhớ chút gì về những kiếp trước, cũng không cảm thấy mình chính là người đã tế kiếm hay tặng kiếm gì đó cho anh ta. Nhưng tôi cũng không thể nói như vậy với anh ta được. Vì vậy tôi chỉ biết yên lặng đứng đó, chờ đợi nỗi đau của anh ta nguôi đi. Dù sao cũng là quá khứ. Có lẽ anh ta đã vượt qua được rồi, chẳng qua đây chỉ là một khoảnh khắc yếu lòng mà thôi.
Rất lâu sau, cuối cùng, Kỳ ca gượng cười nói:
– Được rồi, xem tiếp nhé. Sau khi chúng ta rèn kiếm xong là đến ngày nàng cử hành lễ cập kê. Vậy ta đưa nàng về thăm phủ quốc sư.
Phủ quốc sư chính là phủ của Thường quốc sư Thường Lã. Ông chỉ có một người phu nhân và bốn người con. Con trai cả là Thường Ngôn, con gái đầu là Thường Nghi, con gái thứ là Thường Hy – cũng
chính là kiếp đầu tiên của tôi và con trai út là Thường Mục. Trước mặt tôi là cánh cổng gỗ to dày màu đỏ, hai bên có hai tượng kì lân đá hình thù hơi kì dị nhưng vô cùng sống động, có thể nói tay nghề khắc tượng đá thời kì này đã phát triển đến đỉnh cao. Tôi không khỏi tấm tắc. Trên cánh cổng là một tấm biển gỗ cũng nền đỏ, ba chữ Phủ Quốc Sư sơn vàng lấp lánh. Bên trong phủ tuy không rộng và xa hoa như cung nhà Hạ, nhưng hơn ở chỗ trang nhã, thể hiện rõ tính cách chủ nhân.
Tiểu viện nơi Thường Hy ở nằm sâu bên trong phủ, trong sân cũng có một gốc hồng mai. Qua khung cửa sổ đang mở, tôi nhìn thấy nàng đang ngả đầu gối lên chân một vị phu nhân, ngồi bên cạnh là một thiếu nữ trạc tuổi Thường Hy. Thiếu nữ đó so với Thường Hy thì giống đến bảy tám phần, nhiều hơn một chút yểu điệu, kém hơn một chút lém lỉnh.
– Đó là nương và tỷ của nàng.
Thật ra không cần Kỳ ca giới thiệu
tôi cũng đoán ra được. Hơn nữa, trái tim trong ngực tôi còn đang quặn đau không
biết vì lẽ gì. Bà ấy khẽ vuốt tóc Thường Hy, tỉ tê tâm sự những điều giữa mẹ và
con gái. Bà ấy dặn nàng phải làm gì trong buổi lễ ngày mai bằng giọng ôn nhu từ
tốn, giống một bà mẹ bình thường chốn dân gian hơn là một quý phu nhân. Hình ảnh
này khiến tôi nhớ đến mẹ tôi, mẹ tôi ở kiếp này. Những buổi trưa hè suốt thời
thơ ấu, tôi cũng thường gối đầu lên chân bà, để bà xoa lưng và phe phẩy quạt cho
tôi, đưa tôi vào giấc trưa bằng giọng kể đều đều như tiếng ve.