Ba ngày sau, thế trận trên núi đã phá giải hoàn toàn. Bách Lạp dẫn đầu đoàn người lên cửa ngách dẫn vào lăng. Theo đúng luật của Mô Kim Hiệu Úy truyền từ đời này sang đời khác, ông bày một đàn tế nhỏ, dâng hương xin phép xuống đấu. Ba nén hương vừa thắp lên, Bách Lạp quỳ dưới đất thảy một đồng xu cổ vào lư. Một nén vẫn cháy đỏ đầu nhưng không có khói. Hai nén còn lại bốc khói đen. Khói đen tức là chủ mộ không đồng ý. Đối với giới đạo mộ mà nói, hương bốc khói đen cũng không phải việc hiếm lạ gì. Nào có ai đồng ý cho kẻ lạ đột nhập nơi an nghỉ của mình, lấy đi đồ tùy táng của mình. Thế nên ông bình tĩnh cho người dâng ba nén hương khác lên, bản thân thì thành tâm khấn. Lần này, ba làn khói xanh vấn vít. Khói xanh nghĩa là chủ mộ còn đang cân nhắc. Bách Lạp khẽ nhíu mày. Bách Di Giai ghé tai Đoàn Cẩn thì thầm:
– Cẩn ca, huynh nói xem Nhu hoàng quý phi có ý gì? Không phải truyền thuyết nói bà ấy bị hãm hại, chết oan rồi bị nhốt ở đây sao? Chúng ta xuống phá trấn yểm cho bà ấy, không phải tốt ư?
Đoàn Cẩn im lặng, Bách Hà Nhiên lại chen vào:
– Chuyện của ngàn năm trước, chúng ta sao biết thực hư. Cũng có thể nhiều năm như vậy, bà ấy cũng đã nghĩ thông, buông bỏ thù hận rồi, chỉ muốn yên ổn ở đây thôi.
Một tên lính Mã gia quân sốt ruột, làu bàu:
– Mẹ kiếp, chỉ là xuống lấy vài thứ thôi, bày đặt tế lễ lôi thôi thế làm gì. Thời đại nào rồi, định giả thần giả quỷ lừa chúng ta chắc.
Hắn vừa dứt lời đã bị một viên sỏi từ đâu bay đến đánh thẳng vào miệng. Tuy chưa đến nỗi gãy răng nhưng đau buốt cùng nhục nhã khiến hắn điên tiết muốn đánh người. Cũng may đám lính bên cạnh can ngăn, nếu không viên sỏi tiếp theo trong tay Viêm Tử Sâm đã nhắm thẳng vào cổ họng hắn.
Mặc kệ hỗn loạn bên này, Bách Lạp vẫn cúi lạy rồi cho người thắp hương lần thứ ba. Ông yêu cầu toàn bộ người có mặt quỳ xuống hành đại lễ. Quả nhiên, từ ba nén hương lần này đã xuất hiện ba làn khói trắng, nghĩa là chủ mộ đã đồng ý. Đám người Mô Kim Hiệu Úy thở phào nhẹ nhõm. Tế lễ xong xuôi, họ nhanh chóng ai vào việc nấy, chuẩn bị mở lối đi xuống.
Bách Lạp và những người xuống đấu quay trở về lều thay một bộ trang phục gọn gàng, mang theo binh khí tùy thân, Mạc Kim Phù cùng một số vật dụng cần thiết như la bàn, dây thừng, nến, đèn pin… Ông để Di Giai giúp mình soạn đồ, bản thân không ngừng dặn dò cô phải ngoan ngoãn chờ trong lều. Di Giai chán nản gật đầu. Cha cô đã ca bài này suốt mấy tháng nay. Cô đã lớn chừng này, tuy có chút nghịch ngợm nhưng chưa bao giờ làm ông phiền lòng đến mức này. Nhưng nghĩ đến Thường Lã, cha của Thường Hy, cũng từng là cha cô, Di Giai lại thấy những lời của Bách Lạp ấm áp làm sao. Cô nũng nịu ôm lấy cánh tay ông, ngọt ngào lấy lòng:
– Cha, người đừng lo lắng nữa có được không? Con hứa sẽ ngoan ngoãn ở trong lều chờ mọi người. Cha xem, nơi này rừng núi hoang vu, cũng đâu có chỗ nào cho con chơi được. Trái lại là cha đó, xuống dưới đấu đừng cậy sức. Đã là lão gia tử rồi, cứ để cho đám lính Mã gia quân đi trước, phần còn lại Cẩn ca, đại ca cùng nhị ca sẽ lo.
– Hừ, ai là ông già hử?
Bách Lạp nhéo mũi con gái. Di Giai là báu vật trong lòng ông, ông không cho phép bất kì ai tổn thương cô dù chỉ là một sợi tóc. Lão Mã kia cứ chờ đấy.
Chính Ngọ, Bách Lạp sai người dùng một lượng nhỏ thuốc nổ mở cửa đá. Lượng thuốc nổ này đã được tính toán kĩ càng sao cho không ảnh hưởng đến núi tuyết bên trên. Ít hơn một phân thì không mở được cửa, nhiều hơn một phân sẽ làm tuyết lở. Những Mô Kim Hiệu Úy có mặt ở đây đều là chuyên gia trong lĩnh vực của họ, vạn phần đáng tin. Đằng sau cửa đá vừa mở là một mặt dốc đứng hình ống, đường kính chỉ đủ một người chui lọt. Mở được cửa, họ cũng không vội xuống ngay mà chờ thêm nửa giờ đồng hồ cho uế khí bên trong bay bớt. Sau đó, một Mô Kim Hiệu Úy đem lồng chim buộc dây thừng thả xuống. Đây là cách họ thử chất lượng không khí bên dưới hầm mộ. Nếu nửa giờ sau kéo lên, chim trong lồng vẫn khỏe mạnh nhảy nhót chứng tỏ không khí bên dưới sạch, con người cũng có thể hô hấp được. Ngược lại, nếu chim chết hoặc yếu ớt chứng tỏ bên dưới chưa tan hết uế khí hoặc có khí độc, lúc đó phải tìm phương án khác. Đám lính Mã gia quân không muốn chờ đợi thêm nữa nhưng việc thử chất lượng không khí quả thật cần thiết. Chúng cũng không muốn chưa ra quân đã chết sạch không còn tên nào. Sau khi xác nhận chim trong lồng vẫn sống khỏe mạnh, dưới sự chỉ huy của tên đội trưởng, hai mươi lăm tên lính Mã gia quân xuống trước. Đoán chừng bọn chúng sợ Mô Kim Hiệu Úy tìm được đồ lại đem giấu mất nên mới sốt sắng như vậy. Bách Lạp cũng không chấp bọn chúng. Bên dưới biết bao cạm bẫy nguy hiểm, nếu bọn chúng thực sự muốn thay ông mở đường như lời Mã Anh nói thì ông cũng vui vẻ thành toàn cho chúng vậy. Đám người lần lượt trượt xuống. Đoạn dốc này sâu chừng năm trăm mét, trượt khỏi dốc, đoàn người rơi vào một không gian khá lớn. Trái với kì vọng của đám Mã gia quân, trong này hoàn toàn trống rỗng. Đây là một căn phòng mái vòm, bốn mặt tường, trần và sàn đều ốp đá. Ngoài cái lỗ bên trên nơi họ vừa trượt xuống, xung quanh không có chỗ nào giống như thông đến nơi khác. Có thể nói, họ vừa vào đã đụng ngay ngõ cụt. Đám Mã gia quân giờ phút này lại nghiêm túc hiếm thấy, chúng chia nhau kiểm tra từng ngóc ngách căn phòng.
Bách Hà Nhiên rờ rẫm tay lên mặt tường trước mặt. Toàn bộ đá ốp trong này đều được chế tác tinh xảo đến kinh ngạc, không thể tìm được một đường rãnh, cơ hồ toàn bộ căn phòng là một khối đá khắc rỗng. Mọi người gõ tường nãy giờ cũng không thăm dò được gì. Hay nói cách khác, căn phòng này độc lập, không dẫn đến đâu cả. Sau bốn tiếng đồng hồ miệt mài gõ từng tấc tường, sàn, thậm chí đám lính Mã gia quân còn đứng lên vai nhau để thăm dò phía bên trên mà vẫn không tìm được gì, đám người bắt đầu nản. Có người cho rằng nên quay ngược lên, tìm một lối vào khác thay vì mất thời gian ở đây. Bách lão gia từ lúc vào vẫn ngồi một chỗ nghỉ ngơi, thấy lòng người bắt đầu hoang mang, ông mới hỏi Đoàn Cẩn:
– Tiểu Đoàn, con thấy sao?
Đoàn Cẩn từ lúc vào chỉ sờ lên tường một lát, sau đó đứng im suy nghĩ. Dựa theo phong thủy, anh tương đối chắc chắn lối vào này là lối gần thiên điện nhất. Nhưng vì sao không thăm dò được gì sau những bức tường đá, cửa thông dẫn đến thiên điện nằm ở đâu thì anh vẫn nghĩ chưa ra. Đoàn Cẩn lắc đầu, nói:
– Không sai được, đây chính là lối vào gần thiên điện nhất. Trong này cũng không có trận pháp gì. Chỉ là cửa thông được che giấu quá kĩ, chúng ta nhất thời chưa tìm ra. Mọi người cứ tạm nghỉ ngơi trước, đừng sốt ruột. Mười lăm phút sau chúng ta tiếp tục tìm kiếm.
Lời của đại thiếu gia Đoàn gia không ai dám phản đối. Dù còn trẻ nhưng địa vị cùng tài năng của Đoàn Cẩn là điều không ai nghi ngờ. Lần thứ hai, nhóm người tìm kiếm một mạch đến khi trời tối mịt, ai nấy mệt lả vẫn không thấy dù chỉ một khe nứt nhỏ. Bách Lạp quyết định cho mọi người dùng bữa tối, có thể hôm nay chỉ đến đây thôi, mới vào đã gặp phải chướng ngại lớn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần cả nhóm.
Đoàn Cẩn từ tốn cắn miếng bánh trong tay. Trong lúc anh đang lục tìm trong trí nhớ xem bản thân đã từng đọc được tài liệu nào liên quan đến căn phòng kín như thế này không thì bỗng một luồng sáng dìu dịu lướt qua mái tóc Bách Hà Nhiên đang đứng phía đối diện. Đoàn Cẩn ngước nhìn. Là ánh trăng xuyên qua đoạn dốc họ trượt vào. Hôm nay là ngày 13, trăng đã tương đối sáng, nhưng do trong phòng đốt đèn, nếu không phải ánh sáng bạc ấy chiếu lên tóc Hà Nhiên thì anh cũng không nhận ra được. Khoan đã, ánh trăng? Ánh trăng!
– Mọi người, tắt hết đèn nến đi, đừng để lại chút ánh sáng nào!
Thấy Đoàn Cẩn đột ngột ra lệnh, nhóm người không khỏi sửng sốt. Tuy vậy, mọi người cũng nhanh chóng làm theo. Khi căn phòng chìm vào bóng tối, ánh trăng mờ ảo lại trở nên rõ rệt hơn bao giờ hết. Lần theo ánh trăng, một bùa chú hình tròn nhỏ như lỗ khóa dần hiện lên. Đoàn Cẩn không chậm trễ, anh lấy bút chu sa trong ngực vẽ đè lên một bùa chú lớn hơn, sau đó, cắn ngón tay trái nhỏ một giọt máu lên bàn tay phải rồi chưởng mạnh lên tường đá, “Phá!”