Sớm hôm sau, trời còn chưa sáng, Hạ hầu đã cho mời Thường quốc sư. Thường Lã dặn dò đám gia nhân xong, vội vào cung. Ông được cung nữ dẫn đi trên những hành lang vòng vèo, leo không biết bao nhiêu bậc cầu thang, cuối cùng dừng lại ở đình nghỉ chân trên núi.
Hoàng cung nước Hạ nương mình theo thế núi. Dòng sông Vị uốn lượn bao quanh Hạ đô, từ xa xưa đã bồi đắp phù sa, ban cho muôn dân Hạ đô cuộc sống no ấm, cũng mang lại cho Hạ đô vị trí dễ thủ khó công. Năm xưa tiên hầu Hạ quốc chọn nơi đây đặt đô cũng vì lẽ này.
Hạ hầu đứng trong đình, chắp tay nhìn ra xa. Thường quốc sư bái kiến, ngài cũng không quay lại, chỉ khẽ nói “Miễn lễ”. Thường Lã thấy vậy cũng không lên tiếng, ông yên lặng đứng hầu sau lưng. Từ đỉnh núi này có thể nhìn bao quát hoàng cung và toàn bộ vương đô Hạ quốc, quả thật có thể mang lại cảm giác cả thiên hạ dưới chân mình. Chừng sau một nén hương, mặt trời từ từ nhô lên khỏi mặt sông Vị. Mặt sông lấp loáng như ngàn vạn thoi bạc. Những cánh đồng bên bờ sông nhuộm một màu vàng óng ả. Lúc này, Hạ hầu mới quay lại, chỉ vào bàn cờ nói:
– Nào, đã lâu không được thưởng thức kì nghệ của Thường quốc sư, cùng ta chơi vài ván.
– Vâng, mời Hầu gia.
Khả năng chơi cờ của Thường Lã có thể nói đứng đầu thiên hạ, Thường Hy cũng được nhận chân truyền. Tính ông vốn thẳng thắn, chưa từng nể mặt Hạ hầu mà nhường một nước. Vì vậy Hạ hầu chưa bao giờ thắng nổi ông. Nhưng Hạ hầu không vì việc này mà nổi giận. Ngài thực sự mến mộ tài năng của Thường Lã. Ngồi trước bàn cờ, họ không còn phận vua tôi mà chỉ là hai ông bạn già tri kỉ.
Qua ba ván, Hạ hầu vẫn bị vây vào thế hạ phong. Ngài khẽ cười, vuốt chòm râu:
– Thực sự… không thể nhường sao?
Thường Lã biết lời này là ý tại ngôn ngoại, Hạ hầu không nói đến thế trận trên bàn cờ. Ông đặt một quân trắng xuống, nói:
– Hầu gia. Đại cuộc cũng giống như ván cờ này. Toan tính từng bước. Chỉ một bước sai, vạn kiếp bất phục.
Hạ hầu trầm lặng. Thường Lã lại tiếp:
– Ngài còn nhớ năm đó gặp nhau tại Đế đô, ngài đã nói gì với thần không?
– Nhất ngôn cửu đỉnh. Ta sẽ không quên lời nói của mình.
– Vậy giờ ngài lại mềm lòng ư?
Hạ hầu lắc đầu:
– Thường Lã. Đại cuộc thì có liên quan gì tới hai đứa nhỏ? Đây là nghiệp lớn của ta và ông. Ta già đã có Hạ Kha, ông thì còn có Thường Ngôn. Những năm qua không phải ta và ông đều chú trọng bồi dưỡng Kha nhi và hắn sao? Để Kỳ nhi và Thường Hy được sống vui vẻ hạnh phúc đi, đừng cuốn chúng vào cuộc chiến này. Phía Vu Điện, Vu Mẫu vẫn đứng về phía chúng ta. Không nhất thiết phải đưa Thường Hy vào đó.
– Hầu gia. Hy nhi vào Vu Điện, đó là số mệnh của nó. Nhị công tử những năm qua được ngài dung túng, vui chơi đã đủ rồi, cũng đã đến lúc nên quay về gánh trách nhiệm của cậu ấy. Mệnh của nhị công tử bất phàm. Cho dù ngài và thế tử có lòng, cũng không thể gánh nổi mệnh của cậu ấy.
– Ông…
Thường Lã nói thẳng ra như vậy khiến Hạ hầu nghẹn họng. Ngài không nói lại được Thường Lã. Mệnh Hạ Kỳ bất phàm. Điều này ngài cũng đã biết từ lâu. Nhưng đứa con trai này của ngài tinh nghịch ham chơi, tính tình nóng nảy hiếu thắng, không được chín chắn hiểu chuyện như đại ca hắn. Hắn không màng thế sự, không đặt đại nghiệp trong tâm. Ngài cũng không quản nổi hắn. Hạ hầu thở dài:
– Hạ Kỳ, tiểu tử kia đã quỳ trước thư phòng ta từ đêm hôm qua. Hắn cầu xin ta ban hôn cho hắn và Thường Hy. Ý quốc sư thế nào?
– Hầu gia, ý thần đã quyết.
Quen biết Thường Lã đã lâu, Hạ hầu hiểu tính ông. Ông ta vốn là người tương đối ôn hòa, nhưng phàm chuyện gì liên quan đến đại nghiệp, ông ta sẽ không thỏa hiệp. Còn ngài thì sao? Đại nghiệp là đại nghiệp của ngài, của Hạ quốc, của toàn thiên hạ. Ngài vì toàn dân trong thiên hạ, đừng nói là phải hi sinh hạnh phúc của một đứa con, cho dù phải hi sinh tính mạng của cả hoàng tộc Hạ thị, ngài cũng cam lòng. Chuyện của hai đứa nhỏ, thôi thì cứ tuân theo mệnh trời đi.
– Vậy ông về lo chuyện của Thường Hy. Ta sẽ khuyên bảo lão nhị. Phía Vu Điện… cũng đừng ép con bé quá. Vu Mẫu và phần lớn các trưởng lão vẫn đứng về phía chúng ta.
– Thần tuân mệnh.
Bóng Thường quốc sư khuất sau ngã rẽ, Hạ hầu đặt một quân đen xuống bàn cờ, thấy vẫn bế tắc, thế cuộc trên bàn cờ đã định, giãy giụa vô ích. Ngài lại đứng lên, nhìn xuống vạn dặm giang sơn dưới chân mình. Ngài không biết phải đối mặt với Hạ Kỳ thế nào, nhưng ngài biết rất rõ sức nặng của bốn chữ “thiên hạ thái bình” trên vai gia tộc họ Hạ ra sao. Hạ Kỳ sinh ra là người hoàng tộc, cơm áo hắn dùng là máu của con dân. Thường Lã nói đúng, đã đến lúc hắn nên gánh trách nhiệm của hoàng tộc rồi.
Thường quốc sư về đến phủ đã thấy đám gia nhân nằm la liệt dưới sân. Một đám khác tiến thoái lưỡng nan, vây quanh Thường phu nhân. Thường phu nhân tay cầm gậy thay kiếm, bảo vệ Thường Hy sau lưng, hét:
– Kẻ nào dám động đến nhi nữ ta!
Thường Ngôn sợ hãi khuyên:
– Nương, người bình tĩnh buông gậy xuống kẻo bị thương. Chúng ta đợi cha về…
– Cha ngươi? Tên Thường Lã ấy đâu có coi ta ra gì? Ta đẽ hết lời van xin, lão già ấy cũng không để lời nào lọt vào tai. Ta mặc kệ, hôm nay kẻ nào dám đụng vào Hy nhi, ta sẽ sống chết với kẻ đó.
– Đủ rồi!
Thường Lã rẽ đám thị vệ bước vào. Công phu của Thường phu nhân không cao, nhưng đám gia nhân thị vệ không dám đả thương bà nên bị bà đánh cho tơi tả. Lúc này thấy Thường quốc sư về, bọn họ không khỏi thở phào.
– Quốc sư, phu nhân… phu nhân…
– Được rồi, các ngươi lui cả đi.
Thường Lã phất tay áo. Đám gia nhân thị vệ lục tục kéo theo những người bị thương rời đi. Thường phu nhân vẫn không buông gậy, chỉ thẳng vào mặt ông, quát:
– Được, Thường Lã. Ông về rồi thì tốt. Ông nghe cho rõ đây. Hôm nay đừng ai nghĩ đến chuyện mang nhi nữ của ta đi.
Bà vừa dứt lời, Thường Ngôn, Thường Nghi, Thường Mục nhất tề quỳ xuống cầu:
– Cha, cầu xin người cho muội muội / tỷ tỷ ở lại.
Thường Lã tức đến tím tái mặt mũi.
– Thường gia này còn có gia quy không? Không một ai nghe lời ta phải không?
Thường Hy từ đầu đến cuối không lên tiếng. Nàng bướng bỉnh nhìn cha mình, muốn nghe một lời giải thích từ ông. Nhưng chỉ nghe thấy ông nói:
– Hôm nay Thường Hy nhất định phải đi. Người đâu, đem Thường Ngôn, Thường Nghi, Thường Mục nhốt vào từ đường. Còn bà…
Thường Lã chưa kịp dứt lời đã thấy Thường phu nhân xông tới. Bà không nói hai lời, gậy nào chém xuống cũng mạnh mẽ dứt khoát. Thường quốc sư bị tấn công bất ngờ, trong tay lại không có vũ khí, đành chịu hứng mấy gậy. Nhưng công phu của bà cũng chỉ có vậy. Thường Lã nhường mấy chiêu, cuối cùng dứt khoát dồn linh lực vào đầu ngón tay, điểm huyệt bà. Thường phu nhân ngất đi, ông liền giao cho hai nha hoàn đưa bà về phòng. Lúc này, trong sân chỉ còn ông và Thường Hy.
Ông nhìn nàng. Đây là nhi nữ của ông. Ông cũng yêu thương, nâng niu nàng như trân bảo. Nhi nữ này của ông tuy bướng bỉnh, nhưng tài năng đứng đầu Hạ đô. Xét cầm kì thi họa, không tiểu thư nào sánh bằng. Xét kiếm pháp, huyền thuật, không công tử nào hơn nàng. Ông nhìn nàng lớn lên, dung mạo và tài năng như một nụ hoa e ấp dần nở rộ, nhìn nàng phải lòng một công tử xứng lứa vừa đôi, lại phải chính tay cầm gậy đả uyên ương, có người cha nào không thương xót? Nhưng kiếp này của nàng đã định, kiếp này của hắn cũng đã định, ông chỉ có thể cố hết sức bảo vệ nhi nữ của mình. Chỉ sau một đêm, Thường Lã như già thêm vài tuổi. Ông mệt mỏi nói với Thường Hy:
– Hy nhi, đây là con đường tốt nhất ta có thể sắp xếp cho con. Đừng cố chấp nữa.
– Tốt nhất? Vu Điện tốt chỗ nào? Tại sao người nhất định phải đuổi con đi?
– Hy nhi. Thiên mệnh không thể cãi…
Thường Hy cười lạnh:
– Thiên mệnh? Ta không tin thiên mệnh!
Dứt lời, nàng rút nhuyễn kiếm xông lên. Trong lòng nàng tràn ngập phẫn uất. Cha nàng không giải thích gì thêm ngoài hai từ “thiên mệnh”. Mà nàng tin rằng vận mệnh con người chỉ có thể nằm trong tay bản thân. Rõ ràng, ông ấy mang nàng ra đánh đổi lợi ích chính trị. Thiên mệnh chỉ là cái cớ. Trong lòng ông ấy chỉ có quốc gia đại nghiệp, không có đứa con như nàng.